Ngày đăng: 10:57 AM 20/12/2018 - Lượt xem: 1887
Trắc Bách Diệp – Cây Bá Tử Nhân – Co Tòng Péc (Thái)
Tên khoa học Thuja orientalis L. (Biota orientalis Endl).
Thuộc họ Trắc bách Cupressaceae.
Trước đây có tác giả đã xác định huyết dụ Dracaena angustifolia Roxb., nay được xác định lại làCordyline terminalis Kunth.
Cây trắc bách diệp thuộc cây thân gỗ nhỏ, cao 2 m-5 m, cây phân nhánh từ gốc, nhiều nháng có màu nâu đỏ; các cành non có các vảy lá ôm sát thân đều nằm trên một mặt phẳng. Lá đơn kép, mọc đối thành 4 hàng chèn lên nhau ôm sát vào thân, hình vảy dài 2-4 mm, màu xanh bóng ở cành già nhạt hơn ở cành non. Thuộc hoa đơn tính. Thường các phân nhánh gần cuối có 1-2 nón cái ở các cành gốc và nhiều nón đực ở các cành ngọn, lá bắc là 4 vảy dạng lá ở gốc mỗi nón. Nón cái hình nón tròn mọc đầu cành ngắn, gồm 6-8 vảy dày màu vàng xanh bên ngoài, có 6 vảy dạng khô xác màu vàng nâu bên trong xếp trên 1 vòng và 2 vảy to ở trung tâm; vảy bên ngoài mặt trong phủ phấn trắng, hình xoan, dài 1,5-2 mm, rộng 0,6-1 mm. Nón đực hình đuôi sóc mọc ở đầu cành ngắn gồm 8-10 vảy hình xoan tròn. Vảy màu trắng hoặc vàng xanh, dài gần 1 mm, mặt trong chứa các túi phấn hình cầu màu xanh bao quanh một trục hình trụ chứa nhiều hạt phấn màu xanh, hình trứng. Hạt hình trứng nhọn, màu vàng đến nâu nhạt, dài 3-8 mm, nhẵn bóng.
Cây có nguồn gốc từ Ấn Độ được du nhập vào các nước Châu Á và biến đổi thành cây cảnh, những cây mọc hoang thường được sử dụng làm thuốc. Cây phân bố nhiều nơi điển hình là Trung Quốc, Liên Xô cũ (vùng Capcazơ). Tại Việt Nam loại cây này rất nhiều gia đình trồng làm cảnh và sử dụng lá chữa mẹo.
Bộ phận dùng: Lá, rễ, Cành non và hạt (Cacumen et Semen Platycladi orientalis)thu hái quanh năm, tốt nhất vào tháng 9 – 11.
Lá cây trắc bách diệp có thể hái quanh năm, nhưng tốt nhất từ tháng 9 đến tháng 11 (hái cả cành, cắt bỏ cành to, phơi khô trong mát, cất đi dùng dần). Còn hạt thu hái vào mùa thu, mùa đông (phơi khô, xát bỏ vẩy ngoài, rồi lấy hạt phơi khô).
Liều độc: Đã thí nghiệm nước sắc trắc bách diệp sao vàng đen trên thỏ, khỉ và chuột lang, thấy: Với thỏ liều 100g/kg một lần thỏ không chết, sau 4 ngày theo dõi. Với khỉ liều 30g/kg không làm chết, sau nửa tháng theo dõi (dung dịch 200%). Với chuột lang liều 64g/kg (dung dịch 400%) không thấy chết.
Chữa cầm máu : Cành lá và quả cây trắc bá diệp thường dùng làm thuốc. Cành lá: thu hái quanh năm, lá sao vàng đen, từ 30g đến 50g, sắc với 400ml nước còn lại 100ml, uống ngày 2 lần.
Ho ra máu : Lá trắc bá diệp cùng với là ngải cứu, buồng cau điếc, vỏ quả cam, và bạc hà, sắc uống chữa băng huyết, rong huyết. Lá trắc bá diệp, lá huyết dụ, lá thài lài tía, rể rẽ quạt, sắc uống.
Nôn ra máu, chảy máu cam: Lá trắc bá diệp kết hợp với lá sen, ngó sen, sinh địa, ngải cứu, sao vàng, sắc uống. Liều lượng mỗi thứ dùng phối hợp từ 8-15g mỗi loại, sắc một lần 400ml còn lại 100ml, uống ngày hai lần.
Chữa bệnh ho lâu ngày: Lấy lá + cành trắc bá, cùng với rễ chanh, rễ dâu, rễ cây chùm gởi trên cây dâu, mỗi thứ 10-15g sao vàng, sắc với 400ml còn lại 100ml, uống ngày hai lần.
An thần – nhuận tràng : lấy quả già: Thu hái vào tháng 9, phơi khô, giã bỏ vỏ cứng, lấy nhân, thì ta được dược liệu là Bá tử nhân. Sao qua, giã nát, ép bỏ dầu, ta được Bá tử xương. Mỗi ngày dùng từ 5-15g. Sắc uống cùng với nhân táo, long nhãn, hạt sen liều lượng bằng nhau.
Chữa kiết lỵ : Dùng từ 8-12 nhân quả trắc bá, đối với người lớn, và từ 4-6 nhân quả đối với trẻ em, giã nát, thêm ít nước gạn lấy nước uống.
Thuốc cầm máu dùng trong bệnh ho ra máu, thổ huyết: Trắc bách diệp (sao cháy đen) 15g, ngải diệp 15g, can khương sao 6g, nước 600rnl. Sắc còn 200ml. Chia 3 lẩn uống trong ngày.
Rượu bổ (Tứ bổ tửu) : Hạt trắc bách diệp 60g, hà thủ ô thái nhỏ 60g, nhục thung dung thái nhỏ 60g, ngâm với 2 lít rượu trắng loại tốt. Mùa xuân, hạ ngâm 10 ngày, mùa thu, đông ngâm 20 ngày. Mỗi lần uống 1 chén con, ngày hai lần.
Dưỡng tâm đan (thuốc bổ tim): Lá trắc bách diệp sấy khô 400g, đương quy 200g, tất cả tán thành bột mịn, trộn đều, làm thành viên cỡ hạt đỗ xanh. Mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần 50 viên, chiêu thuốc bằng nước muối nhạt. Có tác dụng dưỡng huyết, lương huyết (mát máu), bổ tâm, an thần, dùng chữa người bồn chồn, mất ngủ, tim đập dồn loạn nhịp từng cơn (tâm quý) râu tóc sớm bạc.